Buổi trò chuyện của nhà nghiên cứu tâm linh Lý Mính: Chào mọi người, chào mừng đến với chương trình “Tin hay không tùy bạn”, tôi là Lý Mính. Hôm nay, tôi muốn trò chuyện với mọi người về một vài vấn đề rất đáng để tìm hiểu và suy ngẫm từ vụ án của Vu Mông Lung.

Thứ nhất là, việc tiếp xúc qua EVP (Hiện tượng giọng nói điện tử) có thật không?
Thứ hai chính là, “Tam hồn thất phách” (ba hồn bảy phách) rốt cuộc là gì? Tại sao có hồn phách của Vu Mông Lung đã lên trời, mà có hồn phách lại đang chịu khổ?
Thứ ba là, tại pháp hội an hồn, tại sao mọi người lại cảm thấy có một luồng khí lạnh khi Vu Mông Lung đến?

Trước hết, xin cảm ơn sự quan tâm và lên tiếng ủng hộ của mọi người dành cho Vu Mông Lung. Càng phải cảm ơn những người bạn đã giúp Vu Mông Lung làm “Tam thoái”. Cũng vô cùng cảm ơn những người bạn đã đến tham dự pháp hội an hồn của Vu Mông Lung. Vì sự chia sẻ của các bạn đã giúp chúng tôi hiểu được rất nhiều thông tin chân thực tại hiện trường, cũng giúp chúng tôi giải mã được nhiều vấn đề khó hiểu.

Truyền thông Đài Loan đưa tin rằng, có người nghi ngờ tại pháp hội an hồn, pháp sư đã đọc sai ngày sinh của Vu Mông Lung. Thế là, có khán giả đã đến hiện trường để lại lời nhắn cho chúng tôi, làm rõ một cách rất rành mạch, nói rằng vị pháp sư đó ngay tại chỗ đã phát hiện ra sai sót, và đã lập tức sửa lại. Hơn nữa, trên bầu trời tại pháp hội ngày hôm đó còn xuất hiện dị tượng tốt lành, có đám mây hình rồng rất rõ rệt, một đầu của đuôi rồng này có hình dạng giống con cá. Hơn nữa, trong điều kiện bầu trời quang đãng, còn xuất hiện một dải cầu vồng, ngay trên bầu trời phía trên pháp hội. Điều thần kỳ hơn nữa là, khi ông Tôn Đức Vinh gọi linh hồn của Vu Mông Lung đến hiện trường, thiết bị thu âm tại chỗ đã thu được một tiếng “Hi” (xin chào) của Vu Mông Lung chào mọi người.

Sự chia sẻ của cư dân mạng này đã được những cư dân mạng khác xác thực. Một cư dân mạng khác cũng xác nhận rằng khi ông Tôn Đức Vinh mời linh hồn Vu Mông Lung vào đàn, mọi người đều nghe thấy tiếng “Hi” đó. Còn có một cư dân mạng khác chia sẻ chi tiết hơn, cô ấy nói hiện trường pháp hội rất trang nghiêm và thù thắng, khi pháp sư cầm lá phướn chiêu hồn lên, cô ấy cảm thấy một luồng khí lạnh, biết rằng Vu Mông Lung đã đến. Khi nghi thức tiến hành được một nửa, cô ấy trong một khoảnh khắc đã nhìn thấy Vu Mông Lung ở phía sau lá phướn chiêu hồn. Cô ấy rất cảm động, cũng rất biết ơn ông Tôn Đức Vinh và các nhân viên tại hiện trường. Toàn bộ pháp hội kéo dài năm tiếng rưỡi.

Còn có cư dân mạng bổ sung thêm rằng, pháp sư có bẩm báo lên thiên đình, và đã gieo quẻ xác nhận Vu Mông Lung có mặt tại đó.

Trải nghiệm tại hiện trường của cư dân mạng, thực ra chính là đã chứng thực tính chân thực của việc “Hồ sơ 204” sử dụng EVP để tiếp xúc với linh thể của Vu Mông Lung. Tại sao lại nói như vậy? Thực ra, có rất nhiều người bạn Đài Loan tin rằng có sự tồn tại của hai cõi âm dương, có địa ngục và cũng có thiên đường. Nhưng cũng có người không tin. Còn các bạn ở Đại lục thì do bị ảnh hưởng bởi sự tẩy não của thuyết vô thần của ĐCSTQ, nên đa số là không tin.

Giới học thuật chủ lưu ở phương Tây cũng giữ thái độ phủ định đối với cõi linh giới. Họ thà dùng khái niệm khoa học về “không gian đa chiều” (dị độ không gian) để thay thế cho nội hàm và ngoại diên của khái niệm “linh giới”. Về thí nghiệm EVP, chúng ta trước đây đã từng giới thiệu sơ qua, bây giờ tôi muốn cùng mọi người trò chuyện chi tiết hơn về vấn đề này hôm nay.

Tên đầy đủ của EVP là Electronic Voice Phenomena, tức là “hiện tượng giọng nói điện tử”, là một công cụ điều tra siêu nhiên, dùng để bắt giữ những âm thanh bị nghi là từ linh giới. Năm 1959, một nhiếp ảnh gia người Thụy Điển khi đang ghi âm tiếng chim hót, đã vô tình thu được giọng nói của người mẹ đã khuất của mình. Đây có lẽ là bản ghi EVP sớm nhất. Từ đó, cũng đã mở ra cuộc thám hiểm sử dụng các thiết bị điện tử để bắt giữ âm thanh của “thế giới vô hình”. Đến những năm 1960, ông Konstantin Raudive đã tiến hành nghiên cứu về vấn đề này và quảng bá nó. Ông là một nhà tâm lý học, nhà cận tâm lý học và nhà văn người Latvia, sinh ra ở Latgale, một khu vực Công giáo của Latvia. Ông được giáo dục ở nhiều nơi ở châu Âu, thông thạo nhiều ngôn ngữ, và từng là học trò của nhà tâm lý học nổi tiếng Carl Jung.

Cống hiến chính của Raudive chính là nghiên cứu về EVP. Từ những năm 1960, ông đã chuyên tâm sử dụng các thiết bị ghi âm điện tử, ví dụ như máy ghi âm băng cối, để bắt giữ những “âm thanh của người đã khuất” bị nghi là ẩn giấu trong tiếng ồn xung quanh. Ông đã đích thân ghi lại hơn 100.000 đoạn EVP. Những âm thanh này thường là những cụm từ ngắn, hoặc các từ đơn lẻ, để trả lời các câu hỏi của người ghi âm v.v. Ông coi đây là bằng chứng cho thấy các linh hồn đang thông qua sóng điện từ để giao tiếp với người sống. 

Vào năm 1971, ông đã xuất bản một tác phẩm mang tính cột mốc có tên là “Đột phá”. Cuốn sách này được coi là tác phẩm đặt nền móng cho lĩnh vực EVP, trình bày một cách có hệ thống về kỹ thuật EVP cũng như những tìm tòi triết học của ông về âm thanh siêu nhiên. Cuốn sách này đã dấy lên một cơn sốt nghiên cứu siêu nhiên trên toàn cầu, và rất tự nhiên, nó cũng vấp phải sự hoài nghi từ giới khoa học, cho rằng EVP phần lớn là ảo giác thính giác, hoặc do nhiễu thiết bị.

Vậy thì, âm thanh được ghi lại bởi EVP rốt cuộc có phải là ảo giác thính giác hay nhiễu thiết bị không? Bây giờ chúng ta hãy nhìn vấn đề này từ góc độ hiện tượng vật lý. Hiện tượng EVP, nó là một hiện tượng sóng điện từ. Các nhà nghiên cứu lợi dụng sóng điện từ làm môi trường trung gian để đột phá giới hạn vật lý giữa hai cõi âm dương, đạt được mục đích cho phép linh hồn giao tiếp với người sống. Vì vậy, hiện tượng EVP là một hiện tượng vật lý, không phải là huyền học gì cả, cũng không phải là thần bí học, mà là khoa học.

Vậy linh hồn giao tiếp với người sống bằng cách nào? Tức là, làm thế nào mà họ làm được điều đó? Chúng ta trước tiên cần hiểu một vài khái niệm. Đầu tiên chính là sóng điện từ. Sóng điện từ là gì? “Âm gian” và “dương gian” mà dân gian nói đến là gì? Sóng điện từ này, từ góc độ vật lý mà nói, chính là một loại sóng phi cơ học do điện trường và từ trường vuông góc với nhau truyền năng lượng dưới dạng sóng trong không gian. Nó không cần môi trường trung gian vẫn có thể truyền đi, và tốc độ truyền trong chân không là tốc độ ánh sáng. Ví dụ như sóng vô tuyến, vi sóng, tia hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy, tia cực tím, tia X và tia gamma v.v., đều thuộc phạm trù sóng điện từ.

“Dương gian” mà dân gian nói đến, thường chỉ thế giới thực tại nơi người sống cư ngụ. Ví dụ như thế giới của chúng ta đây, tràn đầy sức sống và các hoạt động vật chất có thể nhìn thấy. Còn “âm gian”, thì chỉ nơi trở về của linh hồn người chết, thần bí, ẩn giấu, thường được tưởng tượng là một lĩnh vực khác “có ranh giới rõ ràng”.

Nếu giải thích từ ba góc độ vật lý là “chiều không gian”, “năng lượng” và “sự chuyển pha”, thì dường như sẽ dễ hiểu hơn một chút, không còn thần bí như vậy nữa. Từ góc độ không-thời gian vật lý, chúng ta có thể coi hai cõi âm dương là hai không-thời gian song song. “Dương gian” chính là không gian ba chiều mà chúng ta quen thuộc cộng với một chiều (thời gian), tức là không-thời gian 4D cộng thêm thời gian. Đây chính là “vũ trụ hữu hình” được mô tả trong thuyết tương đối rộng. Ở đây, các hạt, ví dụ như electron, proton tương tác với nhau ở giới hạn tốc độ ánh sáng. Năng lượng thông qua sóng điện từ, ví dụ như ánh sáng và nhiệt, truyền đi một cách tự do. Mọi thứ đều “có thể nhìn thấy ở chiều cao”, có thể nhìn thấy mặt trời, chạm vào mặt bàn,… đây chính là trạng thái cân bằng động tràn đầy “dương khí”.

Còn “âm gian” giống như một chiều không gian bổ sung, giống như “chiều không gian ẩn” trong Thuyết dây (String theory) hoặc Thuyết Kaluza-Klein. Các nhà vật lý học cho rằng vũ trụ có thể có 10 hoặc 11 chiều, nhưng chúng ta chỉ có thể cảm nhận được 3 chiều, các chiều không gian khác bị “cuộn lại” rất, rất nhỏ, giống như những lớp màng mỏng song song xếp chồng lên nhau. “Sau khi chết đi về âm gian” giống như hạt này từ “màng” 4D của chúng ta trượt sang một “màng” khác. Ở bên trong đó, thời gian có thể trôi ngược lại, giống như thế giới phản vật chất, hoặc năng lượng tồn tại dưới các hình thức khác nhau, ví dụ như năng lượng tối.

Ranh giới “âm dương cách biệt” trong dân gian giống như là “lỗ sâu” (wormhole) hoặc “ngưỡng cửa” của hố đen trong thế giới này. Một khi đã bước qua, thì không thể quay lại, bởi vì lực hấp dẫn hoặc sự uốn cong của chiều không gian, khiến cho con đường này là không thể đảo ngược. Trừ khi có sinh mệnh ở tầng cao hơn, sắp xếp lại luân hồi, một lần nữa chuyển sinh đến dương gian.

Thế thì, tại sao “âm gian” lại cho người ta cảm giác xa xôi mà không thể chạm tới? Giống như chúng ta không thể trực tiếp “nhìn thấy” không-thời gian chiều thứ năm vậy, nhưng các mô hình toán học lại có thể suy ra ảnh hưởng của nó. Cũng có thể dùng “tần số” trong vật lý học hiện đại để biểu đạt. Hai cõi âm dương chính là hai tầng không-thời gian có tần số và mật độ năng lượng khác nhau, hoặc là cách nói mà mọi người quen thuộc, chính là “chiều không gian”.

Âm và dương không phải là sự phân cách về vị trí không gian. Người xưa nói “âm dương cách biệt”, thực ra cũng không hoàn toàn là như vậy. Chỉ là vì “pha” năng lượng của hai không-thời gian khác nhau, hoặc là đối xứng bổ sung cho nhau, đã tạo nên cảm giác này, là âm dương cách biệt.

“Dương gian” là một không-thời gian được cấu thành từ các hạt phân tử. Thực ra là một “tầng ngưng tụ” phân tử có năng lượng tương đối thấp, tần số tương đối chậm. Sự kết hợp giữa các hạt phân tử khác nhau đã hình thành nên thế giới vật chất mà chúng ta quen thuộc. Mọi sự vật có thể nhìn thấy, có thể chạm vào, đều là một dạng biểu hiện của loại năng lượng tần số thấp này.

“Âm gian” cũng là không-thời gian cấu thành từ các hạt phân tử, nhưng tần số thấp hơn, năng lượng thấp hơn. Âm gian không phải “ở dưới lòng đất”, mà là ở trong một chiều không gian có tần số khác, chỉ là mắt thường của chúng ta không thể cảm nhận được mà thôi.

Trong “Hồ sơ 204: Tiếp xúc Vu Mông Lung 1.0”, tại sao Vu Mông Lung lại hy vọng người hâm mộ thắp đèn cho anh ấy? Có phải là cần tăng cường dương khí không? Thực ra không phải, mà là để nâng cao tần số của anh ấy, hỗ trợ linh hồn “điều chỉnh tần số”. Bởi vì, sóng photon của ánh sáng đèn chính là dòng năng lượng tần số cao và ổn định. Nó có thể giúp ý thức thể của người đã khuất “căn chỉnh” với tần số ở tầng cao hơn.

Bởi vì sau khi linh hồn rời khỏi thân xác, nếu vẫn còn mang theo chấp niệm, bi thương, sợ hãi, thì những thứ này đều là tần số hỗn loạn, biên độ thấp, dễ bị kẹt lại ở “tầng trung ấm” (trung ấm tầng), tức là vùng rung động màu xám, gần với cõi người, năng lượng không ổn định. Ánh sáng đèn và lời cầu nguyện, có thể khiến trường ý thức của họ từ hỗn loạn chuyển sang trật tự, từ tạp âm tần số thấp chuyển sang cộng hưởng tần số cao, từ “tầng trung ấm” được “nâng tần số” để tiến vào tầng ánh sáng ổn định hơn và cao hơn.

Chúng ta có một số khán giả có thể chất “linh dị” (dễ cảm nhận tâm linh), còn có nhà ngoại cảm người Anh Ty Williams, thực ra đều đã tiếp xúc được. Linh hồn của Vu Mông Lung trong giai đoạn đầu, đích thực là tràn đầy oán niệm, bi thương và sợ hãi. Thậm chí có cư dân mạng còn thấy linh hồn anh ấy bị xiềng xích trói buộc, ngay cả ở linh giới cũng vẫn không thể tự do.

Vậy thì, đến ngày 20 tháng 10, sau khi có người đã làm “Tam thoái” thành công cho Vu Mông Lung, thì gần như tất cả mọi người có thể tiếp xúc được với anh ấy đều nhìn thấy, hoặc cảm tri được rằng, luồng “âm khí”, oán niệm trên người anh ấy đã không còn nữa. Bản thân tôi cũng cảm nhận được. Chính là Ty Williams, thậm chí còn nói anh ấy mặc áo trắng, chính là ở cùng với Thần Phật rồi.

Điều này cho thấy rằng, khi chúng ta trải qua tất cả những điều này, sẽ phát hiện ra “Tam giới” được nói đến trong kinh Phật là thật sự không hư dối. Tầng cấp năng lượng của âm gian là thấp hơn so với dương gian, tức là “Dục giới”. Đó chính là không-thời gian mà Vu Mông Lung đã ở sau khi bị hại, là lạnh lẽo, tối tăm.

Nhưng mà, khi anh ấy tiếp xúc linh tính với rất nhiều cư dân mạng và người hâm mộ, đều bày tỏ nguyện ý “Tam thoái”, sau đó tầng cấp năng lượng của anh ấy rõ ràng đã được nâng lên. Sau khi Tam thoái, anh hiện ở cùng với Thần Phật, giúp đỡ nhân gian chấn hưng chính nghĩa. Điều này cho thấy “Tam thoái” đích thực là một “pháp khí” mà Thần giới cung cấp cho chúng sinh, để giải trừ sự khống chế của hệ thống ma quỷ.

Nói cách khác, “Sắc giới” và “Vô sắc giới” cao hơn “Dục giới”, tầng cấp năng lượng cao hơn Dục giới rất nhiều. Thực tế, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng là đang quản lý các sự việc ở Minh giới (cõi âm) trong Tam giới. Mặc dù không nhất định là chân thân của Bồ Tát ở đó, nhưng mà, khi Vu Mông Lung chưa bày tỏ ý muốn Tam thoái, ngay cả Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng không thể giúp anh ấy giải thoát khỏi xiềng xích. Bởi vì đó là khế ước mà chính anh ấy đã tự nguyện ký, phải tự mình giải trừ mới có hiệu lực.

Điểm này, tôi vẫn luôn chưa nói, vì tôi lo lắng mọi người do tình cảm chi phối, có thể sẽ không chấp nhận được, ngược lại hiệu quả không tốt. Bây giờ anh ấy đã Tam thoái rồi thì có thể nói. Thực ra có rất nhiều trường hợp như vậy. Tôi cũng tiếp xúc với không ít lời nhắn và thư từ của cư dân mạng gửi cho tôi, nói rằng những người đã qua đời đều rất hy vọng có người giúp họ làm Tam thoái.

Thực ra, âm gian cũng là một không-thời gian vật chất. Còn khế ước này là thuộc về “linh”, là thuộc tính linh tính. Cho nên, người ta rời khỏi dương gian rồi, khế ước vẫn sẽ theo linh hồn mà có hiệu lực. Vì vậy, đây là lý do tại sao tôi không ngừng nhắc nhở tất cả đồng bào Đại lục, Hoa kiều ở hải ngoại, hoặc là người thân của bạn có tầng quan hệ này với các tổ chức của ĐCSTQ, nhất định phải Tam thoái. Chính là để cho linh hồn của mình được tự do. Người thân đã qua đời, cũng phải giúp họ Tam thoái, để họ được tự do.

Bây giờ chúng ta hãy nói một chút về việc EVP kết nối hai cõi âm dương như thế nào. Thực ra, bất luận là từ góc độ linh học, hay góc độ khoa học, giữa hai cõi âm dương có một giới hạn vật lý mà con người không nhìn thấy được. Không phải là có một bức tường hay thứ gì đó tương tự như vậy ngăn cách, mà là sự “chênh lệch pha” của tần số và năng lượng.

Chúng ta có thể hiểu như thế này: “Dương giới” (cõi dương) là thế giới của người sống, là vật chất, tức là một thể liên tục không-thời gian do điện từ chủ đạo. Còn “Âm giới” (cõi âm) là thế giới của người đã khuất, là phi vật chất, hoặc là “trường thông tin”, tương tự như “chiều không gian ẩn” trong lý thuyết trường lượng tử.

Chúng ta đều biết âm thanh về bản chất là sự rung động của các phân tử không khí. Còn sóng điện từ là sự dao động của trường năng lượng trong không gian. Linh hồn muốn phát ra âm thanh, thì phải chuyển năng lượng ý thức phi vật chất thành dạng dao động điện từ mà thế giới vật chất có thể cảm nhận được, như vậy mới có thể nghe thấy.

Vì vậy, linh thể nếu dùng “sóng ý thức” năng lượng thấp của nó (gần giống như sóng não, hoặc là dạng giao thoa lượng tử) để can nhiễu vào trường điện từ xung quanh, khiến nó hình thành sự lệch dạng sóng tức thời (transient waveform deflection) trong mạch khuếch đại của máy ghi âm, là có thể đạt được sự kết nối với dương gian.

Còn “tiếng ồn trắng” (white noise) là một dạng sóng mang phổ không có trật tự. Linh thể có thể thông qua “hiệu ứng cố kết lượng tử” (quantum coherence) để “chọn tần số”, hoặc “sắp xếp lại” pha trong tiếng ồn, khiến nó thể hiện cấu trúc âm thanh có thể nhận diện được ngữ nghĩa.

Một số tín hiệu EVP trong ghi âm kỹ thuật số sẽ biểu hiện các đặc trưng phổ của sự cộng hưởng dây thanh quản của con người. Linh hồn sẽ thông qua phương thức “chiếu xạ thông tin” (information projection) này, sao chép “trận hình âm thanh” (dạng thức âm thanh) lúc sinh thời của mình vào trong tín hiệu điện từ. Như vậy, trong các thí nghiệm EVP, chúng ta có thể thu thập được âm thanh của linh thể, đạt được sự tiếp xúc. Đó chính là “hiển linh” mà dân gian thường nói.

Tiếng chào “Hi” của Vu Mông Lung mà mọi người nghe thấy tại pháp hội an hồn, chính là từ đây mà ra, không hề huyền ảo đâu. Nói cách khác, hiện tượng EVP mặc dù bị giới học thuật chủ lưu coi là ngành học và nghiên cứu bên lề, nhưng nó đích thực là một thí nghiệm khoa học. Hoặc có thể nói, hiện tượng siêu nhiên này hoàn toàn có thể dùng nguyên lý khoa học để giải thích rõ ràng.

Nói đến đây, thì phải nói đến một vấn đề khác mà mọi người rất quan tâm. Cũng chính là vấn đề thứ hai mà hôm nay tôi muốn trò chuyện với mọi người, đó là “Tam hồn thất phách” (Ba hồn bảy vía). Sau khi con người qua đời, linh hồn thật sự là bất tử sao?

“Tam hồn thất phách” của con người rốt cuộc là chuyện gì? Tại sao có người nhìn thấy Vu Mông Lung ở linh giới rất đau khổ, có người lại thấy anh ấy rất tự do?

“Tam hồn thất phách” là một trong những nhận thức linh tính sâu sắc nhất của người Trung Quốc cổ đại về kết cấu sinh mệnh con người. Nó tiết lộ rằng con người không đơn thuần là một cơ thể vật chất, mà là do ba tầng hệ thống “Tinh” (精 – vật chất), “Khí” (氣 – năng lượng), và “Thần” (神 – ý thức) đan xen vào nhau mà thành.

Người xưa cho rằng con người có “tam hồn” và “thất phách”. “Hồn” chủ về dương, “Phách” chủ về âm. “Hồn thăng thiên, Phách quy địa” (Hồn bay lên trời, Phách trở về đất). Câu nói này thực ra là đang nói về một hệ thống phân tầng năng lượng. “Hồn” là ý thức ánh sáng đến từ thiên giới. “Phách” là chương trình điều khiển sự sống đến từ địa giới. Hai thứ này kết hợp lại liền hình thành nên một con người hoàn chỉnh.

Trong Đạo gia, Nho gia, cũng như trong các điển tịch như “Thái Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh” và “Vân Cấp Thất Thiêm”, “Tam hồn” thường được gọi là: Thai Quang (胎光), Sảng Linh (爽靈), U Tinh (幽精). Tam hồn thuộc dương tính, chủ đạo ý thức, tư duy và hoạt động tinh thần của con người.

Sau khi con người qua đời, “hồn” sẽ trở về thiên giới. Vậy ba hồn này gọi là gì?

Thứ nhất gọi là Thai Quang (胎光), cũng gọi là Thiên hồn (天魂), là “linh hồn của sinh mệnh” (Sinh hồn), là “Chủ nguyên thần”, thường trú ngụ ở ấn đường (giữa hai lông mày), tuyến tùng hoặc tim của con người. Đây mới chính là “bạn” chân chính.

Thứ hai gọi là Sảng Linh (爽靈), cũng gọi là Địa hồn (地魂), là “linh hồn của trí tuệ” (Trí hồn), là chủ về khả năng quyết đoán của hồn phách. Thường trú ngụ ở gan của bạn. Cũng có thể nói là “phó ý thức” của bạn.

Còn có một cái nữa gọi là U Tinh (幽精), cũng gọi là Nhân hồn (人魂), là “linh hồn của dục vọng” (Dục hồn), chủ về khí trường, tình cảm. Thường trú ngụ ở phổi của bạn. Được cho là linh hồn cốt lõi chủ quản “thất phách”.

Đạo gia gọi “thất phách” này là: Thi Cẩu (屍狗), Phục Thỉ (伏矢), Tước Âm (雀陰), Thôn Tặc (吞賊), Phi Độc (非毒), Trừ Uế (除穢), Xú Phế (臭肺). Thất phách này đều thuộc âm tính, chủ đạo các ham muốn cảm quan và phản ứng sinh lý của con người. Tương tự như “tiềm thức” và “bản năng nguyên thủy” được nói đến trong tâm lý học hiện đại. Sau khi con người qua đời, “phách” sẽ trở về địa giới.

Đạo gia nói, thân thể con người là một tiểu vũ trụ. Thực tế, thân thể con người là một hệ thống sinh mệnh vô cùng phức tạp. Khi được Thần sáng tạo ra, mỗi tạng phủ của con người đều được sắp xếp một vị Thần tương ứng để chủ đạo. Ví dụ:

  1. Trong thất phách, “Thi Cẩu” (屍狗), cũng gọi là “Tổ phách”, chủ về “vui” (喜 – Hỷ), tương ứng với đại não, chủ quản sự cảnh giác, bảo vệ bản năng.
  2. Thứ hai là “Phục Thỉ” (伏矢), cũng gọi là “Tỳ phách”, chủ về “giận” (怒 – Nộ), tương ứng với lá lách (tỳ tạng), chủ quản cơ bắp, kiểm soát tiêu hóa.
  3. Thứ ba là “Tước Âm” (雀陰), cũng gọi là “Tông phách”, chủ về “buồn” (哀 – Ai), tương ứng với tuyến sinh dục, chủ quản sinh sản, lưu trữ tình cảm.
  4. Thứ tư là “Thôn Tặc” (吞賊), cũng gọi là “Can phách”, chủ về “mừng” (樂 – Lạc), tương ứng với gan (can tạng), chủ quản là giải độc, cân bằng cảm xúc.
  5. Tiếp theo là “Phi Độc” (非毒), cũng gọi là “Tâm phách”, chủ về “ác” (惡 – Ác/Ghét), tương ứng với tim (tâm tạng), chủ quản phân biệt, bảo vệ tâm thần.
  6. Còn có một cái là “Trừ Uế” (除穢), cũng gọi là “Thận phách”, chủ về “sợ” (懼 – Cụ), tương ứng với thận (thận tạng), chủ quản bài tiết, phản ứng với nỗi sợ.
  7. Cuối cùng là “Xú Phế” (臭肺), cũng gọi là “Phế phách”, chủ về “lo” (憂 – Ưu), tương ứng với phổi (phế tạng), chủ quản hô hấp, điều tiết lo nghĩ.

Chúng ta có thể thấy, “thất phách” gần như bao hàm tất cả các bản năng cảm xúc và sự điều khiển sinh lý của con người. Chúng đều thuộc “khí của đất” (địa chi khí), duy trì sự hoạt hóa của thân thể và phản ứng cảm xúc.

“Hồn phách” thực ra không phải là “linh hồn” trừu tượng, mà là “thể thông tin năng lượng” tương tác với các hệ thống khác nhau của cơ thể. Chúng đều có hình thái sinh mệnh độc lập của riêng mình, đồng thời lại cùng với “Chủ nguyên thần” của bạn chung nhau chủ tể một cơ thể.

Khi con người qua đời trong tình trạng bình thường, “tam hồn thất phách” này sẽ thoát ly khỏi thân xác, tìm đến nơi trở về của riêng mình, tức là có sinh mệnh ở tầng cấp cao hơn đến sắp xếp chỗ đi cho họ.

Nhưng mà, những trường hợp chết phi pháp, giống như Vu Mông Lung bị sát hại như vậy, “tam hồn thất phách” của anh ấy, đặc biệt là “thất phách”, không thể bình thường đi tìm nơi trở về, sẽ bị ở trong một không gian giữa hai cõi âm dương, không ăn không uống, rất là thê lương. Cho nên, vị pháp sư mà ông Tôn Đức Vinh mời đã nói với ông ấy rằng, “tam hồn thất phách” của Vu Mông Lung đều đã tiêu tán rồi, là từ đây mà ra.

Tuy nhiên, bây giờ thì chắc là không có vấn đề gì nữa rồi. Anh ấy đã Tam thoái rồi, có Thần Phật đến quản anh ấy rồi, “tam hồn thất phách” tự nhiên có thể quy tụ hợp nhất.

Nói đến đây, chúng ta phải nói về việc, tại sao tại pháp hội an hồn, khi Vu Mông Lung đến, mọi người lại cảm thấy có một luồng khí lạnh.

Người xưa có câu nói rằng, người có “dương khí thịnh”, thì hồn phách không dám lại gần. Vậy tại sao có nhiều pháp sư như vậy ở hiện trường, dương khí thịnh như vậy, mà khi Vu Mông Lung đến, mọi người vẫn cảm thấy một trận khí lạnh?

Chúng ta vừa mới chia sẻ về hiện tượng EVP, cũng như khái niệm “tam hồn thất phách”. Bây giờ chúng ta xem lại vấn đề này, có thể sẽ dễ hiểu hơn rồi.

Trước hết, đây là một phản ứng tổng hợp “vật lý-tâm lý” khi “trường ý thức” và “trường năng lượng” giao nhau. Linh thể, nó không phải là một “bóng ma trong không khí”, mà là một “ý thức thể” được cấu thành bởi “trường năng lượng tần số thấp”, tức là “năng lượng âm tính”. Khi trường năng lượng này tiến vào không gian của cõi người, nó sẽ xảy ra một sự “trao đổi năng lượng” với “nhiệt năng” xung quanh, tức là “năng lượng dương tính”.

Rung động tần số của linh thể tương đối thấp, mật độ năng lượng cũng tương đối yếu. Rung động tần số của nhiệt năng ở cõi người tương đối cao, mật độ năng lượng cũng mạnh hơn một chút. Khi cả hai gặp nhau, phần năng lượng cao sẽ chuyển sang phần năng lượng thấp, tạo ra sự hấp thụ năng lượng cục bộ. Kết quả là động năng của các phân tử không khí giảm xuống, nhiệt độ liền hạ xuống, hình thành hiệu ứng “trường lạnh”.

Thiết bị chụp ảnh nhiệt (thermal imaging) trong một số thí nghiệm tương tự đã thực sự chụp được những khu vực cục bộ bị giảm nhiệt độ 3–5°C trong giây lát. Đây chính là sự tương ứng vật lý của “gió âm thổi từng cơn” (âm phong trận trận) khi linh thể hiển hiện. Chính là “hiển linh” mà chúng ta nói, chính là biểu hiện đó.

Từ góc độ trường năng lượng tâm lý mà xem, những người tham gia tại hiện trường pháp hội, cùng nhau mang ý niệm “tiếp dẫn Vu Mông Lung”. Điều này sẽ hình thành một tần số cộng hưởng trong ý thức tập thể. Carl Jung gọi đây là “trường vô thức tập thể”. Còn trong “năng lượng học” của Đạo gia thì gọi là “khí trường cộng tu” (cộng tu khí tràng).

Khi một linh thể nào đó, hoặc là ý thức tần số cao tiến vào trường vực này, hệ thống thần kinh tự chủ của con người sẽ tự động đưa ra một loại phản ứng. Ví dụ như lỗ chân lông trên da co lại một chút, tuyến mồ hôi co lại, mạch máu co lại, thế là cảm giác trên cơ thể chính là một “luồng khí lạnh” đột ngột ập đến.

Phản ứng này không phải là một sự sợ hãi, mà là sự “điều tần tự chủ” (auto-tuning) do chênh lệch năng lượng gây ra. Cơ thể sẽ thông qua việc giảm nhiệt độ tức thời, điều chỉnh tần số não, để đưa mình vào “vùng năng lượng” có thể giao tiếp với linh thể.

Nói cách khác, “luồng khí lạnh” đó thực ra là tín hiệu linh hồn đã đến, là một biểu hiện sinh lý mà tất cả những người có mặt tại hiện trường “tự động điều tần” (auto-tuning) sau khi linh thể tiến vào.

Điều quan trọng hơn nữa là, ngày 17 tháng 11 khi pháp hội diễn ra, Vu Mông Lung vẫn chưa đạt được Tam thoái. Và đích thực có cư dân mạng để lại lời nhắn nói rằng, họ ở linh giới nhìn thấy Vu Mông Lung vẫn không được tự do, không biết là hồn phách nào. Cảm giác của chính tôi cũng tương đối rõ rệt, chính là sau khi Vu Mông Lung Tam thoái, trường vực âm tính đó đã biến mất. Thật sự cảm nhận được anh ấy đã thực sự quang minh, vui vẻ rồi.

Có thể nói, “Hồ sơ 204” trong vụ án Vu Mông Lung lần này, không chỉ đóng một vai trò mấu chốt trong việc tiết lộ chân tướng, mà còn thực sự khiến cho việc “linh giới truy bắt hung thủ” trở thành hiện thực. Nói cách khác, những câu chuyện “linh giới truy bắt hung thủ” mà chúng ta từng xem trong các bộ phim truyền hình, thực ra đều không phải là bịa đặt, mà là đến từ những vụ án có thật. “Hồ sơ 204” đã khiến cho truyền kỳ như vậy được diễn ra trong thời đại mà khoa học thế kỷ 21 đã trở thành tôn giáo, và còn rất thành công.

Cho nên, Vu Mông Lung là một trường hợp đặc biệt trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt. Có lẽ còn có những vụ án oan khác tương tự như anh ấy. Tôi tin rằng, tổng có một ngày cũng sẽ được đưa ra ánh sáng, chân tướng được phơi bày ra trước thiên hạ.

Tuy nhiên, cá nhân tôi, thì không chủ trương việc người bình thường trong cuộc sống hàng ngày đi quá nhiều vào tình huống tiếp xúc với linh giới như thế này.

Tại sao lại nói như vậy? Tôi có một người bạn phương Tây, ông ấy là một người già vô cùng lương thiện, từng là bộ trưởng ngoại giao của một nước. Nhân phẩm của ông ấy rất cao thượng, từ ái, dễ mến. Khi tiếp xúc với ông ấy, tôi thường có thể học được rất nhiều trí tuệ nhân sinh từ ông.

Nhưng bất hạnh là, ông ấy đã qua đời sau một ca phẫu thuật. Vợ ông ấy đau đớn vô cùng, con gái ông ấy cũng vậy, một thời gian rất dài đều không thể thoát ra khỏi cái bóng của việc ông ấy qua đời.

Nhưng tôi biết, ông ấy đã đến một thế giới khác, ông ấy vẫn còn sống.

Cách đây không lâu, tôi cùng con gái ông ấy uống cà phê. Cô ấy đã là mẹ của hai đứa trẻ, con gái lớn của cô ấy đã 14 tuổi. Khi cô ấy nhắc đến cha mình, cô ấy vẫn ưu tư, đau buồn như vậy, vẫn lưu luyến không nỡ như vậy.

Cô ấy nói với tôi rằng, một ngày sau khi cha cô ấy mất, cô ấy đưa con đến biệt thự mùa hè của cha. Buổi tối, cô ấy đã mơ thấy cha. Ông ấy từ trên biển mà đến, mỉm cười đứng trên bãi cát quen thuộc. Người cha đã đến ôm lấy cô. Ông ấy thật đến nỗi, cô thậm chí có thể cảm nhận được nhiệt độ của cha.

Nhưng người cha nói với cô: “Cha phải đi rồi”. Cô ấy không nỡ xa cha, liền nói: “Cha có thể không đi được không?” “Cha có thể quay lại không?” Người cha nói: “Không được, cha phải đi rồi, nếu không cha sẽ thật sự chết mất.” Sau đó, người cha giống như một ảo ảnh, trượt ra khỏi vòng tay của cô, lùi dần về phía biển, rồi lùi về sau, dần dần biến mất.

Tôi nghe xong liền ôm lấy cô ấy. Tôi thật sự đã rơi nước mắt. Tôi biết tất cả những điều này không phải là mơ, mà là sự thật, là một sự tiếp xúc giữa hai cõi âm dương. Rất giống với cảnh trong bộ phim Mỹ “Contact” (Siêu thời không tiếp xúc), khi nữ khoa học gia, Tiến sĩ Ellie Arroway, cô ấy xuyên qua lỗ sâu (wormhole) cuối cùng cũng gặp được cha mình.

Tên tiếng Anh của bộ phim đó là “Contact”, được quay vào năm 1997. Đây là một bộ phim khoa học viễn tưởng, do đại minh tinh của Mỹ Jodie Foster đóng vai chính. Đây là một bộ phim rất tuyệt vời, tôi thật sự đề nghị mọi người đều nên xem qua. Có thể có những người bạn đã xem rồi. Nó thật sự có thể giúp bạn mở mang tư duy, hiểu về lỗ sâu, hiểu về cuộc đời, hiểu về các hình thái sinh mệnh và không-thời gian vượt qua loài người. Tôi cũng mong chờ một ngày nào đó, chúng ta có thể cùng nhau thảo luận về bộ phim này, cũng như cảm nhận về bộ phim này.

Theo Tin hay không tùy bạn – Lý Mính trò chuyện