Trong văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã xuất hiện một vầng sao Khuê. Dù rằng cuộc đời của ông vừa tới tuổi “tri thiên mệnh” đã ra đi; dù rằng thời gian để ông say sưa với rượu, thù tạc với bạn bè, giang hồ phiêu lãng trong Nam ngoài Bắc nhiều hơn bên bàn viết; thế nhưng, cùng với cá tính vô cùng đặc biệt, ông đã kịp để lại một sự nghiệp khá phong phú, đa dạng cả về số lượng lẫn chất lượng tác phẩm. Thi sĩ tài năng ấy, vị ‘Khuê tinh bị đày xuống hạ giới’ ấy chính là Tản Đà.

Tiếp theo Phần 1Phần 2, Phần 3, Phần 4

Đọc Tản Đà, và thật kỳ diệu có những bài thơ sử dụng ngôn ngữ dân tộc điêu luyện của ông lại cho ta như được thưởng thức những bài thơ Đường trác tuyệt.

Mùa thu thiên thai của Tản Đà

Đề tài mùa thu đã được khai thác để cho ra đời bao nhiêu kiệt tác. Nhưng trong “Cảm thu” Tản Đà vẫn cho ta nhập vào cái dịu buồn diệu vợi của một tâm hồn mênh mang:

“Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương ”

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh. Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly. (Ảnh: Pinterest.com)

Câu chuyện Lưu Nguyễn lạc vào cõi Tiên nhưng vì nhớ quê trở về mà không có cơ hội thứ hai đến chốn xưa đã thành một nuối tiếc không nguôi, một khát vọng còn dang dở:

“Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai

Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt.
Nước chảy, hoa trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời

Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi ….”

(Tống biệt)

Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân

Ngày xuân đến, những ca nương Hà Thành không ai không đắm mình trong điệu hát đầy lạc quan của Tản Đà:

“Gặp xuân ta giữ xuân chơi
Câu thơ chén rượu là nơi đi về
Hết xuân, cạn chén, xuân về
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!

Xuân ơi xuân hỡi!
Vắng xuân lâu ta vẫn đợi, chờ, mong
Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông
Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?

Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt
Kim niên xuân đáo, khách tương phùng
Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác

Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân nay ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi, đời người ta có nửa

Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho, ta chửa hỏi làm chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi
Chỗ quen biết kể gì ai chủ khách

Thiên cổ vị văn song Lý Bạch
Nhất niên hà đắc lưỡng Đông quân
Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần
Thơ với rượu cùng xuân, ta cứ thế

Ngoài trăm tuổi, vắng ta trần thế
Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm!
Cùng nhau nay hãy uống thêm!”

(Gặp Xuân)

(Ảnh: Pinterest.com)

Đọc Tản Đà, chúng ta như gặp lại Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du; như gặp lại Tú Xương, Nguyễn Khuyến…Dĩ nhiên, nồng độ cảm xúc và bản lĩnh nghệ thuật vẫn rất Tản Đà!

Từ trước tới nay, khi nghiên cứu Tản Đà, như một thói quen người ta đều dựa vào thái độ của Hoài Thanh trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”. Hoài Thanh đã đặt vị trí Tản Đà trang trọng ở đầu cuốn sách. Ông cho ta cảm giác Tản Đà là người dạo đầu như chuẩn bị cho ta bước vào một phòng hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa để nghe dàn đại hợp xướng của phong trào Thơ mới làm nên một thời đại thi ca Việt Nam.

Nhận định này cũng chung cái ý thơ Tản Đà là cái cầu nối, là bước quá độ từ văn chương cổ sang hiện đại. Nó “không như thứ rượu quỳnh tương, nấu lâu cất kĩ, rót ra chén ngọc trạm rồng mà như nước suối thiên nhiên chảy ra trong mát nơi khe suối”, thơ ông “mở đường vào thể cách bình dân (…) phong phú lắm vẻ, đủ trang hoàng cho cả một giai đoạn văn học. Nó còn gây dư ba rộng rãi sang cả giai đoạn sau” (Phạm Thế Ngữ).

Tản Đà quả thực vẫn nghiêng về phía văn chương truyền thống.

Tản Đà có địa vị đặc biệt bởi ông tiếp nối dòng chảy của những con người bất hủ

Ông chung dòng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…; gần hơn là Nguyễn Khuyến, Tú Xương… ; xa hơn nữa là Lý Bạch, Thôi Hiệu…

Cái thời chúng ta mới tiếp xúc với văn minh Phương Tây bao nhiêu điều mới lạ, bao nhiêu lợi lộc và những quan điểm phóng khoáng về tự do cá nhân khiến ta thiếu bình tĩnh. Chúng ta phủ nhận cha ông không tiếc lời. Cái đồng hồ Tây không bao giờ sai đã trở thành một mặc định!

Văn minh do khoa học và tư tưởng mang lại từ phương Tây ngày ấy trên mọi phương diện chúng ta coi như đó là những giá trị tuyệt đối để phủ nhận văn minh truyền thống.

Chỉ thời gian chưa lâu so với lịch sử dài đằng đẵng của nhân loại, ta có dịp để cay đắng thấy rằng khoa học và tư tưởng tự do cá nhân đang đưa chúng ta vào tuyệt lộ.

Bài toán Hạnh Phúc của con người thêm nhiều biến số và bất khả thi khi tự do cá nhân đã trở thành những kẻ bất kham không bị chế ước bởi các tiêu chuẩn Đạo Đức. Con người thời hiện đại sống rời rạc hơn, thô lậu hơn. Vì Lợi ích của mình trở thành những kẻ “thập ác bất xá”.

Không hiểu sao, bây giờ thì, muốn tách Tản Đà ra khỏi cuốn “Thi nhân Việt Nam”.
Núi Tản ấy, sông Đà ấy sừng sững đứng riêng.

(Ảnh: Pinterest.com)

Tản Đà vốn có quê hương từ trời cao

Nếu là con người tu luyện sống thật trong những chứng nghiệm của trường phái Đạo Gia thì người ta rất tin Tản Đà là một vị “trích Tiên” bị Trời đày. Cũng như xưa kia, Lý Bạch cũng tâm sự như vậy. Cả hai không phải tưởng tượng ra mà họ có những mách bảo từ Thiên Thượng, hoặc họ có những công năng có thể nhận biết! Chính khoa học ngày nay đã đưa ra rất nhiều những bằng chứng về những người kể chi tiết, mạch lạc về những kiếp chuyển sinh luân hồi của mình.

Tản Đà vốn có quê hương từ trời cao. Ông biết tại sao mình lại bị rớt tầng xuống hạ dưới. Là vì ông đã phạm tội. Ông không oán trách Trời mà chấp nhận hình phạt của Thiên Ý.

Theo ông kể thì ở trên ấy, ông vướng vào chữ Tình. Nhân loại sống trong Tình nên tối khổ bởi chữ Mê. Ông phải xuống nơi có chữ Tình chi phối để phù hợp tầng thứ ấy!

Đạo Gia luôn khẳng định ngôi nhà của mình, quê hương của mình là ở trên kia. Chốn trần gian là cõi mộng. Có lẽ, trong những lần bất chợt thoát Mê, Tản Đà đã coi đời mình từ giấc mộng con, giấc mộng lớn cho đến những khối tình con như một tham chiếu để hiểu mình của hiện tại và mình của quá khứ.

Dùng thuật ngữ “lãng mạn” chỉ là khái niệm của văn chương. Tản Đà chỉ đơn giản là người sống hồn nhiên như nhiên, coi khinh mọi giá trị thế gian từ Danh, Lợi, Tình đã là nhập Đạo.

Nói đến ông là nghĩ tới câu mở đầu trong Tam Tự Kinh: “Nhân chi sơ, tính bản Thiện”. Nói tới ông là nghĩ tới những Anh Nhi, Anh Hài nhảy nhót cười vang lừng trên Kim Thân của Di Lặc Phật.

Ông thuần khiết trong bản tính tiên thiên. Ông sống tới “tri thiên mệnh” nhưng buông bỏ tất cả. Người ta bồi bổ cái phần Hậu Thiên là những kinh nghiệm tranh đấu, lọc lõi. Ông không phải là khước từ mà lại là không có nó.

Ông đúng là trích Tiên. Ông biết mình bị đày nên phải “lập công chuộc tội”. Ông lãnh sứ mệnh truyền Đạo Thiên Lương cho con người. Đọc thơ ông ta như được bơi lội trong dòng sông quê. Đọc ông ta được về một thời vang bóng của nhân cách, khí tiết và Đạo Đức Á Đông.

Không phải ngẫu nhiên mà người đệ tử Nguyễn Tuân của ông luôn nhắc tới Thiên Lương; các nhân vật của Nguyễn đẹp tuyệt vời với nhân cách xưa, đạo đức xưa, ứng xử xưa…

Tin xuân đến ngọn cây đào
Báo cho hoa biết ra chào mùa xuân

Câu thơ xuân cuối cùng của Tản Đà (1939) tràn trề lạc quan. Ông là mùa xuân vĩnh viễn của thơ ca Việt Nam. Dù người ta có nói ông là nhà thơ của hai thế kỷ hoặc ông là người mở đường cho thơ mới, phân lượng hiện thực và lãng mạn là bao nhiêu…. Nhưng đơn giản ông chính là ngọn gió xuân đầy vượng khí hạo nhiên.

Khi những cung đàn của buổi hòa nhạc tân kỳ Thơ Mới, rồi Thơ hiện đại với đủ các trường phái biến dị đang rời xa Thiên Lương.

Đọc Tản Đà khiến ta nhìn và quý trọng những giá trị vĩnh cửu. Như qua bao cuộc biến dời dâu bể ta vẫn nhìn được núi Tản kia còn đó; Đà giang đó còn đây. Như ta nhìn thấy Lý Bạch vẫn ngồi kia với núi Kính Đình, nhìn Trường Giang xa khuất dưới chân Hoàng Hạc Lâu.

(Ảnh: Pinterest.com)

Trong lòng ta, Tản Đà luôn là một Tiên Ông. Trong hàng trăm người dịch Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, bản dịch của ông xứng đáng là kiệt tác của một du Tiên:

“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”

La Vinh