Có những câu thơ đi suốt cả một đời người. Nó như nhắc lại những kỉ niệm bắt cá giữa đường khi con sông quê đục ngầu nước lũ tràn qua mảnh ruộng, ao làng. Nó như một gương mặt bè bạn bất chợt gợi ta nhớ thuở bắt cào cào châu chấu, đào dế ven đê…

“Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng. Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.” (Ảnh pinterest.com)

Bài thơ tôi nhớ đến, thường nhẩm đọc trong những đêm mất ngủ đất phương Nam vọng về đất Bắc khi vừa nghe tin Ngoại ra đi… Bao nhiêu năm sau, tiễn Mẹ về với ông bà, có lúc tôi thẫn thờ bạc phơ con mắt, thức giữa đêm muốn thố lộ cùng trang giấy. Kỳ lạ chưa, ngày mai đọc lại vẫn là bài thơ Đăng U Châu Đài ca của Trần Tử Ngang.

Chợt nhớ một ngày Đông mang mang trong quá khứ, chui trong lòng mẹ ngủ vùi. Nửa đêm chợt giấc nhìn mẹ còng queo ngủ mệt nhọc và …chợt khóc. Mẹ dậy dỗ dành, đứa bé là tôi lúc ấy không thôi mếu máo: “Mẹ ơi! Mẹ sống mãi nha Mẹ”… Bài thơ này hôm nay lại làm mắt tôi tuôn lệ. Mẹ đã ra đi. Và rồi tôi hôm nay? Bao giờ có cuộc viễn du trong thân phận kiếp người?

Chợt nhớ một ngày Đông mang mang trong quá khứ, chui trong lòng mẹ ngủ vùi. (Ảnh pinterest.com)

Bài thơ của họ Trần lại hiện lên nối thời gian dằng dặc bao nhiêu thế hệ. Cái hiện tại có ông bà cha mẹ ngày xưa giờ đã là quá khứ. Cái thế giới thiêng liêng ấy vốn Có, vốn hiện hữu, giờ trống không. Nhưng hoài niệm không cho quá khứ ngủ yên. Chúng vẫn hiện hữu cho bước chân chập chững tuổi thơ đi tìm thời gian đã mất.

Muốn tìm lại những gì của ngày xưa (Ảnh pinterest.com)

Lạ thật, cứ mỗi lúc buồn không thể nói được dù là trang nhật ký, dù là một bài thơ lục bát lan man, hồn vía của Trần Tử Ngang lại tái hiện bốn câu thơ có sức sống hơn ngàn năm. Vâng, đã 13 thế kỷ trôi qua rồi, Đăng U Châu Đài ca đã trường tồn cùng năm tháng như thế đấy…

Nguyên tác tiếng Hán:

登幽州臺歌

(陳子昂 )

前不見古人,

後不見來者;

念天地之悠悠,

獨愴然而涕下。

Một số bản dịch Việt ngữ “Bài ca lên đài U Châu”

*Người trước chẳng thấy ai

Người sau thì chưa thấy

Ngẫm trời đất thật vô cùng

Riêng lòng đau mà lệ chảy.

(Tương Như dịch)

*Ai người trước đã qua,

Ai người sau chưa đẻ?

Nghĩ trời đất vô cùng

Một mình tuôn dòng lệ..

( Hoài Thanh dịch)

Người xưa đâu chẳng thấy!

Kẻ tới sau chẳng hay!

Dài dặc kia trời đất,

Rưng rưng lệ rỏ đầy.

(Bản dịch của Thái Quang Vinh)

Ngẫm trời đất thật vô cùng. Riêng lòng đau mà lệ chảy. (Ảnh: pinterest.com)

Họ Trần làm thơ và để dấu ấn thiên tài của ông từ rất sớm. Đọc thơ ông, bài nào cũng muốn dừng lại để thưởng thức những ý vị đặc biệt. Có giai thoại rằng:

Lần đầu, vừa đến Trường An, thấy có kẻ bán một cây đàn nước Hồ (Hồ cầm), họ Trần bèn hỏi giá. Người bán đàn đòi một vạn quan tiền. Cả chợ không ai dám mua.

Trần bỏ ngay một vạn quan ra mua cây đàn. Mọi người kinh dị hỏi thì Trần bảo: “Đàn này là vật trân bảo nhất đời, tiếc rằng giờ tôi bận việc, chưa giải thích được. Mời mọi người sớm mai đến xóm Tuyên Dương, tôi xin nói rõ”.

Sáng hôm sau, rất nhiều người tụ tập ở xóm Tuyên Dương để nghe Trần giải đáp thắc mắc. Trần sai người nhà bày rượu thịt mời tất cả. Cạn chén, Trần giơ cao cái đàn nói: “Tôi là Trần Tử Ngang, người đất Thục, có trăm quyển văn, rong ruổi kinh sư, mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không ai biết đến, chẳng ai biết cho, còn cái Hồ cầm là vật nhỏ mọn thì lại xúm nhau vào xem. Than ôi! Chốn văn vật này ngờ đâu không có ai biết người biết của!”.

Nói xong, hầm hầm tức giận, đập tan cây đàn ra rồi phân phát thơ mình cho mọi người. Chỉ một ngày, thơ Trần được truyền tụng khắp kinh thành. Quan Tư không Vương Thích xem được, nức nở khen rằng, thơ Trần đáng đứng đầu thiên hạ (sưu tầm).

Con người ấy, trong cái nhìn nhân thế thì rất cô đơn. Cô đơn cả trong thiên địa, không gian và cả trước/sau của thời gian vô thủy vô chung… (Ảnh pinterest.com)

Ông vốn là con một gia đình giàu có. Ông đã từng sa vào con đường ăn chơi cờ bạc “Trăm nghìn đổ một trận cười như không”. Thật bất ngờ, chàng trai này quay ngoắt 180 độ, dùi mài kinh sách và tự thấy mình sừng sững như một đài cao giữa những danh sĩ đương thời. Ông coi việc lập Danh, lập Chí và đặc biệt việc lập Ngôn là lý tưởng của mình.

Tiền của không có ý nghĩa gì so với giá trị văn chương, giá trị tinh thần. Để lại điều ấy khiến ông luôn niệm suy về vũ trụ, muốn bất tử cùng “thiên địa du du”.

Dùi mài kinh sách và tự thấy mình sừng sững như một đài cao giữa những danh sĩ đương thời. (Ảnh pinterest.com)

Sực nhớ, Đặng Dung là vị tướng thất thế thời hậu Trần. Người đời ít biết những chiến công và cái kết bi phẫn của cha con ông. Riêng câu “Gươm mài bóng nguyệt” là bất tử với văn chương Việt. Đừng quên rằng, vị tướng bạc đầu mong báo thù cho nước, phò giá cho vua ấy mở đầu bài “Cảm  hoài” cũng “vô cùng thiên địa du du” bằng âm hưởng  của  Trần Tử Ngang:

“Thế sự du du nại lão hà?

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”.

[“Việc đời dặc dặc tuổi già đây

Trời đất miên man nhịp hát này” ]

(Bản dịch của Nguyễn Văn Trình)

Trước nữa, Thôi Hiệu đã từng “Bạch vân thiên tải không du du.. “

Đặng Dung là vị tướng thất thế thời hậu Trần (Ảnh pinterest.com)

Với văn tài xuất chúng đó, năm 24 tuổi, Trần Tử Ngang đã thi đậu tiến sĩ và được Võ Hậu nể phục tài năng. Người xưa nói chung và họ Trần nói riêng luôn muốn trường tồn cùng hậu thế sự nghiệp văn chương. Hãy nghe ông nói:

“Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ đâu phải để lưu danh nhất thời”.

Hãy tìm hiểu Trần Tử Ngang để thấy rằng họ Trần đã có quan niệm rất riêng, thơ ông có tiếng nói hào sảng, bi tráng rất riêng. Ông lựa chọn cái hay để phát huy và phủ định những dòng văn chương lòe loẹt phù phiếm.

Ảnh pinterest.com

Ông là nhà cách tân, là người tiên phong trong việc yêu cầu sáng tác phải có “ký thác”, tức nói lên suy ngẫm của mình trước hiện thực đời sống, lìa bỏ hẳn thơ sắc tình và ca công tụng đức. Nói rõ hơn, Trần tiên sinh đòi hỏi thi ca phải có lý tưởng cao cả, phải gắn với hiện thực cuộc sống.

Ông cực lực bài xích thơ Tề Lương và đề xướng học tập phong cốt Hán, Ngụy, đặc biệt là phong cách thơ Kiến An (Niên hiệu Hán Hiến Đế 196 – 220). Văn trào này có lãnh tụ là ba cha con Tào Tháo, dưới nữa có “Kiến An thất tử”.

Nhà thơ thời Sơ Đường này cùng với lối thơ “ký thác” đã thực sự mở đường, ảnh hưởng tới sáng tác của các thi gia hàng đầu như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị sau này.

Cũng cần nói thêm về cái tên mà cha mẹ đặt cho ông. Chữ NGANG trong tiếng Việt thường có nghĩa xấu nhưng trong chữ xưa lại nói về người quân tử trượng phu khí phách. Nguyễn Du có hiệu là Thanh Hiên. Nếu dùng chữ ráp lại, ta có thể thấy phẩm chất mà hai thi sỹ đeo đuổi văn chương này là gì?

Là Hiên Ngang, là khí phách, không luồn cúi, sống chết cùng chân, thiện; cùng nguyên lý của trời đất…

Người quân tử trượng phu khí phách. (Ảnh pinterest.com)

Hơn mười năm tham chính, họ Trần bất đắc chí và nhân cớ cha già, xin lui về ở ẩn. Trớ trêu thay, ông bị tên huyện lệnh hãm hại chết trong ngục ở tuổi bốn hai. Tác phẩm còn lại là 120 bài thơ.

Nhưng, nhắc tới tên ông, như một liên tưởng tự nhiên, người ta nhớ ngay tới “Đăng U Châu đài ca”. Có người ngâm ngợi 4 câu thơ trác tuyệt ấy như thơ của chính mình mà không cần biết tác giả và tên tác phẩm.

Trong hàng vạn bài thơ Đường, hàng ngàn nhà thơ Đường thì Trần Tử Ngang và bài thơ của ông rất dễ liên tưởng tới “nhà thơ của một bài” là Thôi Hiệu với “Hoàng Hạc Lâu”.

Có thể nói không ngoa rằng, Trần Tử Ngang đã khởi đầu cho một loạt các bài thơ nổi tiếng với đề tài “Đăng Cao” sau này trong thơ.

Nó như một cái “mã nghệ thuật” nói về tư thế ngang tầm, hòa cùng vũ trụ của nhân vật trữ tình.

Dường như đứng ở trên cao người ta có thể nhìn xuống mà thấy mình có tầm vóc hơn, suy nghĩ hướng thượng hơn, cảm nhận nhân cách trí huệ của mình ở một tầng cao hơn so với thường nhân chen chúc tranh đấu ngược xuôi trong thất tình lục dục.

Con người cứ u mê mãi trong thất tình lục dục tự mình chịu khổ (Ảnh pinterest.com)

Hết phần 1. Kính mời quý độc giả đón xem tiếp phần 2.

Anh Vũ